Cơ quan của ông Nguyễn Hải Dương (Kon Tum) đã tổ chức đấu thầu và tiến hành ký kết hợp đồng với nhà thầu, mức tạm ứng là 30% và trên 1 tỷ đồng, cơ quan ông yêu cầu nhà thầu cung cấp giấy bảo lãnh tạm ứng.
Tuy nhiên, theo ý kiến của nhà thầu, không có quy định nộp bảo lãnh tạm ứng đối với hợp đồng mua sắm hàng hoá. Ông Dương đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn về vấn đề này.
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:
Theo Khoản 2, Điều 92 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định, tùy theo quy mô, tính chất của gói thầu để xác định mức tạm ứng phù hợp.
Trong hợp đồng phải nêu rõ về mức tạm ứng, thời điểm tạm ứng, bảo lãnh tạm ứng, thu hồi tạm ứng; trách nhiệm của các bên trong việc quản lý, sử dụng kinh phí tạm ứng; thu hồi giá trị của bảo lãnh tạm ứng trong trường hợp sử dụng kinh phí tạm ứng không đúng mục đích.
Đối với trường hợp của ông Dương, bảo lãnh tạm ứng thực hiện theo quy định nêu trên.
Ngoài ra, tạm ứng và bảo lãnh tạm ứng được hướng dẫn tại Mục 15 Chương VI Mẫu hồ sơ mời thầu ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.